LUAN VAN: Chủ nghĩa nhân đạo qua lăng kính Phật giáo

A. DẪN NHẬP
Đức phật xuất hiện trong nhu cầu của nhân loại, vì sự sống của nhân loại, tồn tại vì nhân loại, để phục vụ cho nhân loại, nên đạo phật cũng chính là con đường giải quyết các vấn nạn cho nhân loại. Phật giáo xuất phát từ con người, tôn vinh con người, phục vụ con người, đáp ứng được nhu cầu tâm linh cao đẹp nhất của con người và đáp ứng được yêu cầu của khoa học hiện đại. Một số quần chúng không nhỏ có niềm tin thiếu trí tuệ, bị nhiều tác động tiêu cực từ bên ngoài vào như mê tín và dị đoan. Với sự phát triển kinh tế làm cho nhiều người trong xã hội hướng đến “Chủ nghĩa hưởng thụ”, kể cả một số tu sĩ của Đạo Phật, làm cho hình ảnh cao quý của Đạo Phật phần nào bị lu mờ. Nạn ô nhiểm môi trường, nạn gia tăng dân số, bạo lực, nguy cơ bùng nổ đại dịch, chiến tranh khủng bố… vẫn diễn ra không ngớt… đó là những thách thức lớn, đối với nhân loại chúng ta.
Theo lời Phật dạy, một xã hội lý tưởng không nhất thiết có nghĩa là mọi thành viên đều sống cùng một phương tiện, nỗ lực cho cùng những mục đích và đối tượng, và đạt đến cùng một mục tiêu. Trong đạo Phật, xã hội lý tưởng là một xã hội trong đó sự bình đẳng, dân chủ và những quyền con người được tôn trọng, tiến bộ đạo đức và tâm linh được khuyến khích và người dân quan tâm đến đời sống đạo đức. Đó là một xã hội giúp đỡ cho người thiếu thốn, làm mạnh mẽ những kẻ yếu đuối, đem hòa hợp lại cho những người không hòa hợp, mang hạnh phúc và ánh sáng lại cho những kẻ đau khổ và tăm tối. Những điều Đức Phật dạy là nhắm vào sự lợi lạc thiết thực cho hết thảy mọi chúng sinh. Mối quan tâm chính của Ngài là xóa bỏ bệnh tật và đau khổ của con người, mang lại từ bi cho mình và cho người. Ngài dạy cho mọi người sự tịnh hóa tư tưởng lời nói và hành động của họ, dạy họ cách diệt từ đau khổ và buồn phiền, cách vượt qua sầu muộn, cách đạt đến con đường đạo và chứng ngộ Niết bàn. Do đó Đạo Phật phải làm sao là lý tưởng tiên phong trong mỗi ý thức hệ của mỗi con người, để từ đó có thể đóng góp vào các mặt của xã hội cũng như tâm linh nhằm mục đích xoa dịu và hoàn thiện những mặt chưa hoàn thiện của xã hội.
Vì lẽ trên, nên ở đây người viết muốn bàn quan điểm chính trị xã hội của Phật Giáo. Nhưng nếu muốn biết rõ Chính trị quan của Phật Giáo, trước hết ta cần phải hiểu qua cái thực trạng quốc gia là chính trị xã hội của Ấn Độ ở thời đại Đức Phật như thế nào. Đương nhiên, đứng trên lập trường văn minh sử của Ấn Độ mà nói đây là một vấn đề trọng đại, không thể một sớm một chiều có thể nói cho tường tận được, ở đây chỉ có thể nói một cách đơn giản, và tóm tắt những điểm quan yếu .
Ấn Độ vào thời đại đức Phật (thế kỷ thứ V trướcc Tây lịch) chia ra mười mấy nước trong đó những nước lớn mạnh thường muốn thôn tính những nước nhỏ yếu, cho nên tình trạng giữa các nước rất rối ren, Những nước nhược tiểu tìm đủ mọi biện pháp chống trả để bảo vệ sự sống còn, có khi liên minh với các nước nhỏ khác để tạo thành liên bang cho đủ sức mạnh để đối địch lại với các cường quốc. Nhưng trong tổ chức liên minh với các nước, nước nào có thế lực hơn thì lại giành quyền làm bá chủ, thành thử giữa các nước nhỏ cũng lại tranh chấp nhau không dứt. Tình trạng Ấn Độ vào thời kỳ này thật có nhiều điểm tương tự như tình hình Trung Hoa ở thời Xuân Thu Chiến Quốc vậy. Đức Phật là một trong những vị đạo sự danh tiếng thời bấy giờ, cho nên người ta không lấy làm lạ khi thấy Đức Phật cũng được hỏi ý kiến liên quan đến những vấn đề chính trị, đắc giác ngộ an vui Niết bàn. Trong số các vấn đề ấy, đôi khi Ngài đề cập đến nhân sinh, xã hội…có lẻ đây cũng chỉ đơn thuần là những quan tâm của Ngài để làm sao Và chính vì để giải đáp những vấn đề thực tế đó mà đức Phật đã phát biểu quan niệm chính trị của Ngài. Nhưng đặc biệt ở chổ là Đức Phật chưa bao giờ Ngài dùng chính trị hay mượn uy danh, cậy nhờ thế lực vương quyền để truyền đạo hay cho người khác lợi dụng giáo pháp với những mục đích chinh tri xấu xa. Sự truyền bá chánh pháp của Ngài xuất phát từ động cơ duy nhất và cũng tha thiết nhất đó là muốn tất cả chúng sanh thoát ly những tâm lý tham, sân, si, để sớm vuợt qua mọi khổ đau sanh tử, chứng giúp cho mọi người có cuộc sống an lạc bằng cách này cách khác, mà không phải Ngài cố tình chủ trương chính trị, để quản lý và xây dựng đất nước một số người ngộ nhận và có cái nhìn phiến diện. thế nhưng, tuy không trình bày cụ thể về các vấn đề chính trị, không đặt ra chủ trương chính sách như những nhà chính khách quen thuộc khác, nhưng dù sao đi chăng nữa thì trong các kinh điển cũng đã có khi Ngài nói những vấn đề như thế tại vì sao? Có phải chăng Ngài thấy cảnh phân chia giai cấp bóc lột trong từng giai cấp khi máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, và để xóa đi giai cấp đó, cùng với làm thế nào để một thế giới bình đẳng, nhân dân an lành giải thoát cho kiếp sống hiện tại, và chính đề tài để cho người viết nghiên cứu cũng chính là đề tài “Chủ nghĩa nhân đạo qua lăng kính Phật giáo”
Đây là một trong những đề tài mang tính phổ quát cho tất cả quần chúng, đồng thời nó cũng rất có giá trị trong vấn đề nghiên cứu học thuật và nó giúp cho con người chúng ta được đào sâu tư duy và có một cái nhìn đúng đắn chân thật để thấy rằng Triết học Chính Trị – Xã Hội đã góp phần xây dựng cho xã hội một nền tảng Đạo đức tốt đẹp. Và nó cũng giúp cho mọi người trong xã hội có một cái nhìn về Triết học Chính Trị – Xã Hội được sâu sắc hơn.
B. NỘI DUNG
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC.
I.1. Khái Niệm Và Nguồn Gốc Triết Học.
Triết học là môn nhận thức và lý luận, mang tính khoa học nghiên cứu nhằm tìm ra quy luật chung nhất về con người và vũ trụ, về các sự vật hiện tượng tự nhiên và xã hội. Tùy thuộc vào sự phát triển của con người ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, quan điểm triết học của mỗi trường phái cũng khác nhau .
Triết học ra đời ở phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ VI trước công nguyên) tại một số trung tâm văn minh của nhân loại như: Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp. Đối với Trung Quốc, triết học không đơn thuần chỉ là sự miêu tả mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng. Triết học chính là trí và là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
– Đối với Ấn Độ, khởi điểm triết học bắt nguồn với thuật từ Darshana, có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với sự thật, lẽ phải.
– Đối với phương Tây, Triết học có nguồn gốc khởi nguyên từ Hy Lạp và biết đến với thuật ngữ La Tinh là Philosophia, có nghĩa “yêu mến sự thông thái”. Như trong ý nghĩa ban đầu của Hy Lạp, triết học vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.
Nhìn chung, khái niệm triết học dù ở Phương Đông hay Phương Tây đều là những hoạt động tinh thần, biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người và được tồn tại như một hình thái ý thức xã hội. Về mặt học thuyết, tư tưởng triết học của mỗi trường phái trong từng giai đoạn lịch sử có thể không giống nhau trong khái niệm định nghĩa, nhưng nội dung Triết học nghiên cứu về con người và thế giới lại có khuynh hướng chung như là một “hình thể”. Triết học cố gắng tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung; của xã hội loài người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý.
Khái niệm có thể hiểu, “Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí và vai trò của con người trong thế giới đó”.
Như đã biết, Triết học ra đời do hoạt động nhận thức của con người nhằm phục vụ nhu cầu sống. Triết học bắt đầu từ khi con người có tư duy nhận thức về chính mình và thế giới xung quanh, tuy nhiên ý thức hệ của con người vào buổi ban sơ còn rời rạc chưa thể hình thành nền triết học chính thức. Ngay từ buổi bình minh của nhân loại, hình thái sinh hoạt xã hội chủ yếu là lao động chân tay đơn giản, nên triết lý nhận thức phục vụ nhu cầu sống cũng chỉ mới manh nha. Với quá trình phát triển, xã hội dần dần hình thành tầng lớp lao động trí óc; từ đó có sự hệ thống hóa các quan điểm tư duy hay tri thức thành học thuyết lý luận và như thế Triết học ra đời. Nói chung, Triết học ra đời từ thực tiễn cuộc sống, do nhu cầu của thực tiễn và nguồn gốc của nó là nhận thức và xã hội.
– Về nhận thức, tư duy của con người đã đạt đến trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận.
– Về xã hội, trong quá trình phát triển các hình thái sinh hoạt và thể chế xã hội chuyển biến từ giai đoạn chế độ công xã nguyên thủy bước sang chế độ chiếm hữu nô lệ (chế độ xã hội giai cấp đầu tiên của nhân loại). Sự phân tầng xã hội được hình thành và tiến hóa theo quá trình sinh tồn của nhân loại; đây là đối tượng nhận thức của Triết học nghiên cứu và lý luận cho lợi ích của xã hội.
I.2 Đức Tính Từ Bi Và Sự Hoàn Thiện Một Xã Hội Bình Đẳng
Tâm từ hay được gọi chung là Từ bi, là tình thương không điều kiện, không đòi hỏi phải được đáp trả trở lại. Theo từ điển Phật học, Từ có nghĩa là ban vui, bi có nghĩa là cứu khổ. Chữ bi bản thân nó mang nghĩa thương xót khi thấy chúng sinh dau khổ. Chỉ khi nào có thương yêu ai, ta mới thấy xót xa khi người đó đau khổ. Bi là dấu hiệu chứng minh có sự hiện hữu của từ nên chúng ta hay ghép chung thành từ bi. Ngoài ra người có tấm lòng từ bi phải có tinh thần ban bố tình thương không giới hạn trong một số ít người mà luôn có khuynh hướng trải rộng vô tận. Nghĩa là phải có đạt được một trạng thái tu chứng nhất định theo tinh thần “oán thân bình đẳng”. Tình thương bao la rộng lớn là giá trị căn bản của các tôn giáo. Tôn giáo nào không nói đến tình thương rộng lớn thì không phải là tôn giáo chân chính. Nhưng mỗi tôn giáo vẫn có đôi chút khác nhau khi nói về loại tình thương nay. Hồi giáo kêu gọi thương yêu giữa những người đồng đạo với nhau, Kitô giáo theo lời Jesus “thương cả kẻ thù của mình”. Khổng tử cũng đề cao lòng nhân. Chỉ đức Phật mới nói về một lòng Từ Bi thương yêu tất cả chúng sinh, đến tận cỏ cây chim thú. Tình thương rộng lớn mà Đạo Phật nhắm đến gần như tuyệt đối. Đức Phật cũng sẽ phải đi theo hướng đó, về một tình thương phủ trùm tuyệt đối đến tất cả muôn loài, kể cả cỏ cây. Nói theo logic, tình luyến ái thuộc về tâm ích kỷ; lòng từ bi thuộc về tâm vị tha. Ích kỷ thuộc về chấp ngã; vị tha thuộc về vô ngã. Chấp ngã sinh ra ích kỷ và luyến ái; vô ngã sinh ra vị tha và từ bi.
Trong xã hội tùy theo quan niệm của mỗi địa phương, mỗi thời đại mà giữa người nam và người nữ có sự đối xử khác nhau. Có nơi người ta rất coi trọng phụ nữ. Ngược lại, có xã hội, người phụ nữ không được coi trọng đúng mức. Như trong xã hội Âu Mỹ, người phụ nữ bao giờ cũng được ưu tiên (lady fits). Người đàn ông được xếp vào hàng thứ năm, sau súc vật. Nhưng ở xã hội Hồi Giáo, người đàn bà chỉ là công cụ cho người đàn ông. Như vậy, trong đối xử luôn có sự biến thiên, không có sự bình đẳng.
Ở nước ta, trong xã hội phong kiến, người phụ nữ bị xem thường, không có vai trò vị trí trong xã hội. Họ tồn tại gần như là cái bóng của người đàn ông. Trong xã hội hiện nay, vấn đề bình đẳng giữa nam giới và nữ giới rất được quan tâm. Giữa họ đã có sự bình đẳng. Người phụ nữ ngày càng giữ những vị trí quan trọng trong xã hội, chiếm ưu thế so với người nam. Trong xã hội văn minh, hiện đại, mọi công việc dần dần đều được thay thế bằng máy móc, người phụ nữ có nhiều cơ hội hơn. Họ vẫn có thể đảm nhiệm được những việc quan trọng nhưng lại không phải bỏ ra quá nhiều công sức, không phải lao động tay chân.
Ở đây Đạo Phật không chỉ hạn cuộc trong phạm vi giữa người và người. Tính phổ quát của đức tính từ bi còn cưu mang cả những sinh linh nhỏ bé như các loài động vật.v.v. với tinh thần không thủ xả, tính từ bi được thiết lập trên điều kiện xem tất cả chúng sanh đều bình đẳng như nhau, không có kẻ thân người thù. Do đó muốn tạo dựng một xã hội tốt đẹp thì trước tiên con người phải có tâm bình đẳng đối với tất cả mọi người mọi loai. Tính từ bi nếu được áp dụng triệt để thì xã hội sẽ được công bằng, không có kẻ sang người hèn, mọi người đều có quyền sống và mưu cầu hạnh phúc như nhau, kể cả loài xúc sanh. Nếu chỉ biêt đem đồng loại hoặc là súc vật phục vụ cho mục đích cá nhân là điều bất công vô lý, không phù hợp với đạo lý. Thế nên, nếu lòng từ bi được áp dụng đúng mức sẽ xóa bỏ tất cả những bất công trong xã hội hiện đại, bởi vì bản chất của đạo đức của lòng từ bi là không có bóng dáng của sự bất công và mưu cầu hạnh phúc cho cá nhân, mà ngược lại đạo đức từ bi là phục vụ cho tha nhân, cho số đông mà hành vi hoàn toàn không có tính phân biệt.
Một thực trạng hiện nay trong đời sống của các vị tu sĩ phật giáo cũng có một số vấn đề bất cập liên hệ đến thực tế, sự mâu thuẩn giữa các hệ tư tưởng, lý luận, cách hành xử trong đời sống cộng đồng tăng lữ. Có thể nhận thấy điều này, trong nội bộ của Phật giáo, do chấp nhận Bát kỉnh pháp mà giữa người nam tu sĩ và người nữ tu sĩ cũng có sự sai khác nhau. Người viết không dám cho điều đó là sai, nhưng chỉ dám phát biểu những gì mà bản thân mình cho là hợp lý. Tại sao lại có sự đối xử giữa người nam và người nữ tu si khác biệt nhau như thế? Tại sao người này có thể được phép làm điều này mà người kia không được? Tại sao lại có sự vô lý như vậy trong khi chủ trương của Phật giáo luôn nêu cao vấn đề bình đẳng. Giới điều của người nữ tu phải giữ nhiều hơn, thậm chí họ chỉ được xuất gia tối đa là một lần trong đời, trong khi đó người nam thì được bảy lần. Phải chăng là người nữ nặng nghiệp hơn người nam? Thiết nghĩ nghiệp nặng hay nhẹ là tùy thuộc vào từng người không thể quy kết một cách thiếu cơ sở như thế được, nhiều người phụ nữ trên thế giới vẫn được mọi người tôn trọng, giữ nhiều chức vụ lớn trong xã hội, nhiều quốc gia thuộc mẫu hệ người phụ nữ làm chủ trong gia đình, người đàn ông chỉ là phụ. Thế thì ai dám nói những người phụ nữ là nặng nghiệp hơn đàn ông. Từ các vấn đề đó có thể liên hệ đến Phật giáo, thiết nghĩ nếu như thật sự có Bát kỉnh pháp giành cho tỳ kheo ni, thì cũng chỉ mang mục đích thích nghi với xã hội ngày đó, thứ nhất các vị ni ngày đó như bà Ma ha ba xà ba đề, đều là những bậc xuất thân thì chốn vương triều, Đức Phật sợ các vị này sau khi xuất gia sẽ ỷ vào địa vị của mình mà khinh thường các thầy tỳ kheo,cho nên mới chế định ra Bát kỉnh pháp. Hơn nữa xã hội Ấn Độ ngày xưa xem nhẹ vai trò của người nữ cho nên Đức Phật cũng phương tiện mà chế định ra như thê để thích nghi với sự nhận thức và tập tục của từng vùng. Ngày nay vai trò của người phụ nữ đã được củng cố, ở xã hội phương Tây người phụ nữ được coi trọng hơn nam giới, từ sự chấp nhận đó thiết nghĩ chúng ta cũng phải biết thay đổi để hợp lý, nhằm mục đích tránh sự chỉ trích và sự “không hợp thời đại”của Phật giáo. Hơn nữa, trong các loại hình kinh điển, đặc biệt là kinh đại thừa Đức Phật luôn khẳng định “Phật tánh” ở mỗi chúng sanh là như nhau, thì không cớ gì lại cho rằng người nữ yếu kém hơn người nam được, hiện tượng “Long nữ tám tuổi thành Phật” trong kinh Pháp Hoa là sự minh chứng cho vấn đề này. Tinh thần bình đẳng cũng chính là đức tính từ bi, cho nên nếu đức tính này được áp dụng cho mọi đối tượng kể cả loài xúc vật thì sự lợi ích thiết thực sẽ được thiết lập, trong xã hội sẽ không có cơ hội tái diễn những tình huống bất công, mọi người sống thân thiện và biết yêu quý nhau hơn.
II. QUAN NIỆM VỀ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO TRONG KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO.
II.1. PHẬT GIÁO VỚI CÁC VẤN ĐỀ VỀ BÌNH ĐẲNG, KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
II.1.1. Chủ Nghĩa Nhân Đạo Về Bình Đẳng:
Mặc dầu trong Thánh điển Đức Phật chưa bao giờ nêu lên một định nghĩa rõ ràng về Bình đẳng cho xã hội hay phác họa ra hình dáng của một xã hội lý tưởng nhưng rõ ràng rằng khi mà những thành viên trong xã hội thực hành những điềm lành thì họ đã tích cực làm cho xã hội thăng tiến. Như trong Kinh Đức Phật dạy:
“Nếu người làm điều thiện,
Nên tiếp tục làm thêm
Hãy ước muốn điều thiện
Chứa thiện được an lạc” .
Những lời Đức Phật dạy không chỉ hướng đến Niết Bàn mà thôi mà còn đem đến phước lạc chung cho mọi người trên đời vì xã hội được cải thiện khi những thành viên trong đó dấn thân vào việc làm giảm đi nổi khổ đau hiện hữu. Phật giáo đề cập đến bản chất siêu thoát và bản chất bình đẳng trong từng thành viên loài người, đồng thời đề cập đến việc bầu chọn ra nhà cầm quyền với chức danh là người được dân chọn lựa. Đây chính là nền tảng vững mạnh để xây dựng nền dân chủ ở những nước Phật giáo.
Theo cách nhìn của Đức Phật: Căn bản thì mọi người đều Bình đẳng. Kinh Aggannasutta, một trong những bài kinh chủ yếu và rất hàm súc của Trường Bộ Kinh, là mảng tư liệu rất tốt khi nói về nguồn gốc siêu nhiên của loài người. Từ cội nguồn này loài người phát triển thành xã hội và hệ thống giai cấp của nước Ấn Độ cổ đại. Theo Đức Phật thì loài người là hậu duệ của dạng thiên thần phi giới tính và tự thân tỏa ra ánh sáng. Vì bị cám dỗ mà những vị thiên thần mắc kẹt lại trần gian. Khi đã đánh mất năng lực siêu nhiên, những thiên thần phải chịu đựng hàng loạt những suy thoái của môi trường do chính sự bất công đối với đồng loại mà tạo nên. Để phòng ngừa những sa sút nặng hơn nữa họ bầu chọn ra vị Vua đầu tiên gọi là Mahasammata hay người được dân tuyển chọn để làm nhà cai trị cầm quyền bảo vệ công lý và trừng phạt những người đáng trừng phạt. Người ta thấy rằng bài kinh này tác động vào nền văn hóa Phật Giáo qua chữ Sammata hình thức viết tắt của từ người được dân tuyển chọn . Ngày nay, trong ngôn ngữ Miến Điện từ Sammata vẫn còn được sử dụng để chỉ cho chức vụ Tổng Thống dân cử của Quốc gia.
Dựa trên câu chuyện này thì tất cả những thành viên của nhân loại đều bình đẳng và không có một độc quyền nào dành cho nam giới đối với nữ giới hay ngược lại. Hơn nữa, quyền lực của Nhà Vua hay của chính quyền đều do người dân trực tiếp tạo dựng. Bất công dựa trên màu da thì không thể chấp nhận vì bất công chính là nguyên nhân đã gây nên nạn suy thoái môi trường và được xem là một trong những tội lỗi đầu tiên mà tổ tiên của loài người đã phạm phải.
Tuy nhiên, trong nền văn hóa Phật giáo thì lòng tín nhiệm đối với kinh điển là rất to lớn những nguyên lý trong kinh điển cho chúng ta thấy do đâu mà người dân được bình đẳng và do đâu mà chính quyền có quyền lực. Mặc dầu Đức Phật không hề miêu tả mô hình của một xã hội lý tưởng của những người tin Phật nhưng bài kinh vẫn ủng hộ cho quyền bình đẳng của mỗi cá nhân đồng thời chống lại chủ trương phân chia con người thành những giai cấp, hay thành những tộc người. Thông điệp của Đức Phật nêu lên một cách rõ ràng rằng thuở đầu chúng ta đều là thành viên của cùng một chủng loại người và tất cả chúng ta đều xứng đáng tôn trọng và đương nhiên có những quyền lợi như là một thành phần của thiên nhiên. Chính vì thế mà Đức Phật đã thực hiện tư tưởng này bằng cách chấp nhận tất cả mọi người từ mọi giai cấp. Dù được coi là cao hay thấp, gia nhập vào tăng đoàn của Ngài. Đức Phật chấp nhận Upàli, một người thợ cạo vào tăng đoàn. Upali là người làm việc thuộc về một trong những nghề bị khinh miệt của giai cấp thấp, nhưng Upali không những được thâu nhận vào tăng đoàn mà còn được thừa nhận như một Tôn giả chuyên trì giới luật. Sunita, một người đổ phân rơi cũng được chấp nhận vào tăng đoàn của Đức Phật bất kể sự kiện vị ấy xuất thân từ giai cấp Candàla, một trong những giai cấp thấp nhất, hầu như là một người bị loại ra khỏi đẳng cấp.
II.1.2. Chủ Nghĩa Nhân Đạo Về Kinh Tế:
Tuy Đức Phật không bàn chuyện vấn đề Kinh tế, thế nhưng những ý kiến của Ngài phát biểu trong một số trường hợp cá biệt về vấn đề Kinh tế, rất đáng được chúng ta lưu tâm, suy ngẫm. Đức Phật hết sức quan tâm đến động cơ và nội dung Đạo đức của mọi chính sách và thực tiễn phát triển Kinh tế, trong khi các nhà kinh tế học hiện đại lại rất coi nhẹ các vấn đề này. Đối với họ, mối quan tâm hàng đầu là lợi nhuận, là mức tăng trưởng kinh tế. Còn số lợi nhuận và mức tăng trưởng kinh tế đó đòi hỏi một trả giá như thế nào về mặt Đạo đức và xã hội, thì họ không quan tâm hay là ít quan tâm.
Đức Phật khẳng định rằng mọi hoạt động của con người – kể cả hoạt động kinh tế cũng vậy, đều phải có nội dung Đạo đức, nhằm tới hạnh phúc của bản thân cũng như của đồng loại.
Bởi vì đồng tiền, không phải thâu góp bằng bàn tay đạo đức, sẽ là con dao hai lưỡi, sẽ giết chết người chủ của nó. Sau đây là dẫn chứng một nhà tỷ phú Mỹ . J. Lynn, sau này đổi tên mình là Rajarsi Janakananda, khi trở thành một đồ đệ trung thành của môn học Yoga Ấn Độ: Ông nói: “Khi tôi đã đạt tới điểm đó (trở thành tỷ phú), thì tôi trở thành một người tha hóa và thất vọng hoàn toàn. Tôi tưởng rằng đồng tiền sẽ đem lại cho tôi hạnh phúc, nhưng không có gì làm tôi thỏa mãn được. Tôi sống thường xuyên trong tâm trạng thần kinh khẩn trương, tình trạng căng thẳng, nội tâm lo âu, không ổn định”. Cho tới khi tôi được gặp Paramahansa Yogananda và bắt đầu tập Yoga với ngài Paramahansa Yogananda. Và với sự chỉ dẫn của Ngài tôi đã đạt được sự bình thản, an tịnh, hỷ lạc và một ý thức an toàn không có người nào đạt được, nếu chưa có được sự hòa hài nội tâm”.
Đồng tiền không thể là cứu cánh của nhân sinh, nếu xem đồng tiền là cứu cánh, nó sẽ làm cho con người tha hóa và thất vọng. Giá trị của đồng tiền là ở chỗ nó là phương tiện tạo ra môi trường thuận lợi cho sự tiến bộ đạo đức và tâm linh của con người.
Phật không bao giờ ca ngợi sự nghèo khổ. Trái lại, Phật giải thích là muốn trừ nạn giặc cướp và trộm cắp thì dùng hình phạt hay là bố thí đơn thuần đều không thể giải quyết triệt để vấn đề . Qua vị Bà la môn chủ tế, ở triều vua Mahavijita, Phật giải thích là muốn loại trừ triệt để bọn giặc cướp ở trong nước thì:
“Những người nào trong quốc độ nhà vua, nỗ lực về nông nghiệp và mục súc, thì nhà vua hãy cấp cho những người ấy hạt giống và thực vật. Những người nào trong quốc độ của nhà vua mà nỗ lực về thương nghiệp, thì nhà Vua hãy cấp cho họ vốn đầu tư, những người nào trong quốc độ nhà vua, nỗ lực về mặt quan chức, thì nhà vua hãy cấp cho họ thực phẩm và lương bổng. Và những người này sẽ chuyên tâm vào nghề nghiệp riêng của mình và sẽ không nhiễu hại quốc độ nhà Vua nữa. Và ngân quỹ nhà vua sẽ được dồi dào, quốc độ sẽ được an cư lạc nghiệp không có tai ương, ách nạn và dân chúng hoan hỷ vui vẻ, cho trẻ con nhảy đùa ở trong lòng, và sống với nhà cửa mở rộng” .
Nói theo ngôn ngữ hiện đại, thì muốn cho nước nhà được yên, ngân sách nhà nước dồi dào, mọi người đều an cư lạc nghiệp, thì phải có một kế hoạch phát triển kinh tế toàn diện hợp lý, đảm bảo cho nghề nông, nghề buôn bán đều có điều kiện phát triển, đảm bảo cho công nhân viên chức có ăn uống đầy đủ, và đồng lương sống tốt.
Nói chung lại, Đạo Phật không ca ngợi sự nghèo khổ, cũng như không phê phán sự giàu có. Bởi vì, giàu nghèo chỉ là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh. Cứu cánh là sự an lạc thật sự của thân tâm, chỉ có thể đạt tới được bằng đạo đức và trí tuệ. Không những kinh tế dồi dào, mà những điều quý báu nhất của nhân sinh như là sức khỏe dồi dào, thọ mạng lâu dài, dung nhan sáng đẹp v.v… Tất cả đều phụ thuộc vào cuộc sống Đạo đức và trí tuệ. Trong kinh “Chuyển luân thánh vương tu hành”, có đoạn dẫn chứng lời Phật giảng cho các Tỷ kheo:
“Các ngươi phải siêng năng tu các điều thiện, nhờ tu điều thiện mà mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi và được an ổn, khoái lạc, của báu dồi dào, uy lực đầy đủ…” .
II.1.3. Chủ Nghĩa Nhân Đạo Về Chính Trị.
Nói về Chính trị thì PhậtGiáo không đề cao, tuy nhiên không vì lẽ đó mà quên đi trách nhiệm, mục đích là giúp mọi người có được cuộc sống tự do, an vui và hướng thượng. Trong Đại thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận của Kimura Taiken (bản dịch của HT.Quảng Độ) đề cập rất rõ “Nếu chính trị cũng là cuộc sinh hoạt thực tế thì cái gọi là chính trị đạo đức quyết không phải là vấn đề Phật Giáo bỏ qua” . Quan điểm này được cụ thể hóa qua những lời dạy, những bài pháp Đức Phật phù hợp với thực trạng xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Và chúng ta cũng biết rằng Đức Phật vốn là con của vị Vua, Ngài có thể nắm trọn guồng máy chính trị trong nước, nhưng Ngài đã bỏ địa vị đó để xuất gia. Như vậy theo quan điểm này, có thể nói cái gọi là quốc gia, Chính trị không phải là mối quan tâm của đức Phật. Ðiều này đại khái đúng. Song, thật ra, nếu giải thích Phật Giáo theo cách đó thì e rằng không được chính xác. Khác với Nho Giáo, Phật Giáo không trực tiếp lấy việc trị quốc bình thiên hạ làm tiêu xí, nhưng lý tưởng của Phật Giáo như trên đã nói, là mưu cầu cuộc sống thực tế tự do, giải thoát và hướng thượng. Nếu chính trị cũng là cuộc sinh hoạt thực tế thì cái gọi là Chính trị đạo đức quyết không phải là vấn đề Phật Giáo bỏ qua. Trong những buổi thuyết pháp, Đức Phật cũng đã thường đề cập vấn đề chính trị. Mà sự đề cập đó tuy ngụ một lý tưởng cao xa, nhưng cũng rất phù hợp với thực trạng của đương thời. Không những chỉ những người thời bây giờ được hưởng lợi ích thực tế mà đối với chúng ta ngày nay cũng có nhiều ám thị và chỉ đạo.
Tuy nhiên, Ðức Phật là một trong những vị đạo sư danh tiếng thời bấy giờ, cho nên người ta không lấy là lạ khi thấy Ðức Phật cũng được hỏi ý kiến liên quan đến những vấn đề chính trị. Và chính vì để giải pháp những vấn đề thực tế đó mà Ðức Phật đã phát biểu quan niệm chính trị của Ngài. Trong số đệ tử hoặc tín đồ của Phật vì có nhiều Quốc Vương, đại thần nên Phật đã có nhiều cơ hội để trả lời những câu hỏi của họ về đạo giải thoát cũng như các vấn đề chính trị chủ yếu, do đó mà Phật Giáo đã có Chính trị quan một cách ngoài ý định.
Ðạo Phật khuyến khích nền tảng đạo đức và việc sử dụng quyền lực cộng đồng với ý thức trách nhiệm. Ðức Phật tuyên giảng về hòa bình và bất bạo động như là một thông điệp phổ quát. Ngài không chấp nhận bạo lực và hủy hoại sinh mạng. Ngài tuyên bố rằng, không có một chiến tranh nào là chiến tranh của công lý. Ngài dạy: “Người thắng tạo căm thù, kẻ thua sống khổ sở. Người nào từ bỏ thắng và bại thì người đó sống an vui và hạnh phúc.” Chẳng những Ðức Phật dạy về hòa bình và bất bạo động, có lẽ Ngài cũng là vị Giáo Chủ đầu tiên và duy nhất đã ra tận chiến trường để tìm cách ngăn chận chiến tranh. Ngài đã hóa giải sự xung đột giữa bộ tộc Sakya và bộ tộc Koliya khi họ muốn khởi sự đánh nhau vì tranh chấp nước sông Rohini. Ngài cũng đã thuyết phục vua Ajatasanu bỏ ý định tấn công vương quốc của bộ tộc Vaiji.
Ðức Phật đã giảng dạy về sự quan trọng và về các điều kiện thiết yếu của một chính phủ tốt. Ngài dạy rằng khi người lãnh đạo chính phủ tham nhũng và bất công thì xứ sở trở nên tham nhũng, băng hoại, và đau khổ. Ngài chống lại sự tham nhũng và đã dạy rằng chính phủ phải biết quản trị dựa trên các nguyên tắc nhân ái. Ngài nói: “Khi người lãnh đạo xứ sở có tính công bình và thiện ái thì triều đình có tính công bình và thiện ái. Khi triều đình có tính công bình và thiện ái thì các quan chức có tính công bình và thiện ái. Khi các quan chức có tính công bình và thiện ái thì các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái. Khi các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái thì người dân có tính công bình và thiện ái” .
Trong Kinh Cakkavatti Sihananda (Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống, Trường Bộ), Ðức Phật nói rằng các điều hung ác và tội phạm, như ăn cắp, lường gạt, bạo lực, thù ghét, bạo tàn, v.v. đều bắt nguồn từ sự nghèo khó. Quốc vương và triều đình có thể dùng sự trừng phạt để kiềm chế tội phạm, nhưng không bao giờ có thể tiêu trừ các tội phạm bằng quyền lực của mình .
Trong Kinh Kutadanta (Cứu-la-đàn-đầu, Trường Bộ), Ðức Phật chủ trương phát triển kinh tế, thay vì dùng quyền lực, để xóa giảm tội phạm. Triều đình phải biết sử dụng các nguồn tài nguyên để cải thiện điều kiện kinh tế trong nước. Họ phải biết phát triển nông nghiệp ở thôn quê, trợ giúp giới buôn bán, cung cấp lương bổng đầy đủ cho công nhân để bảo đảm một đời sống tốt có nhân phẩm .
Trong Kinh Bổn Sanh (Jakata), Ðức Phật có đưa ra 10 nguyên tắc của một chính quyền tốt, gọi là “Thập Vương Pháp” (Dasa Raja Dhamma). Mười nguyên tắc nầy vẫn có thể áp dụng trong thời đại ngày nay cho bất cứ một chính quyền nào, để quản trị xứ sở một cách hài hòa. Ðó là:
1. Phải cởi mở và không ích kỷ;
2. Duy trì đạo đức cao;
3. Sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân để phục vụ cho an sinh của dân chúng
4. Phải thành thật và ngay thẳng;
5. Phải dịu dàng và giàu lòng nhân ái;
6. Phải sống giản dị để làm gương cho dân chúng;
7. Phải vượt lên trên mọi hận thù;
8. Biết áp dụng tinh thần bất bạo động;
9. Biết nhẫn nại;
10. Tôn trọng ý kiến dân chúng, và biết phát triển sự hòa bình và hòa hợp .
Về cách hành xử của người lãnh đạo thì Ngài giảng thêm (Kinh Cakkavatti Sihananda):
– Người lãnh đạo tốt phải biết cư xử công bình, không thiên vị bất cứ nhóm nào;
– Người lãnh đạo tốt không bao giờ gieo lòng thù hận trong dân chúng;
– Người lãnh đạo tốt không bao giờ ngần ngại áp dụng luật pháp khi cần thiết;
– Người lãnh đạo tốt phải thông hiểu luật pháp rõ ràng mỗi khi áp dụng. Luật pháp không phải áp dụng chỉ vì người ấy có uy quyền, mà phải được áp dụng hợp tình và hợp lý.
Bộ Mi-Lan-Đa Vấn Ðạo (Milanda Panha) có viết: “Nếu người nào không có tài năng, không đạo đức, không phạm hạnh, không xứng đáng là vua, mà lại tự mình tôn xưng là vua hay người lãnh đạo với nhiều quyền lực thì người ấy sẽ bị nguyền rủa và trừng phạt bởi dân chúng, bởi vì người ấy, vì không xứng đáng và không tài năng, đã tự đặt mình một cách vô lý vào vị trí của người lãnh đạo. Người lãnh đạo, cũng như những người đã vi phạm các nguyên tắc đạo đức và giới luật căn bản của xã hội loài người, sẽ bị trừng phạt như bao nhiêu người khác, nhất là đối với những người lãnh đạo ăn cắp tài sản của dân chúng.”
Kinh Bổn Sanh cũng có đề cập đến người lãnh đạo nào mà chỉ trừng phạt người vô tội và không trừng phạt người phạm tội thì người lãnh đạo ấy không xứng đáng lãnh đạo xứ sở.
Vì vậy, Trung Bộ Kinh cũng có nói về vị Quốc Vương biết tự thăng tiến và lúc nào cũng nỗ lực gìn giữ hành động, lời nói và tâm ý, lúc nào cũng biết lắng nghe ý kiến của dân chúng về sự cai trị của mình, để biết mình có phạm lỗi lầm nào không trong khi điều hành đất nước. Nếu vị Quốc Vương ấy cai trị xấu, người dân sẽ than phiền rằng họ đang bị phá hoại bởi một vị lãnh đạo xấu vì các chính sách hà khắc, nhũng lạm, bất công, sưu cao thuế nặng, và do đó, dân chúng sẽ có phản ứng chống lại vị Vua ấy. Ngược lại, nếu vị vua cai trị tốt, thì dân chúng sẽ chúc tụng: “Cầu xin cho Quốc Vương của chúng tôi được trường thọ”.
III. ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO LÀ HÒA BÌNH CHO NHÂN LOẠI
III.1 Thế Nào Là Hòa Bình
Hòa bình là một phạm trù khái niệm mang tính tổng quát. Nó đề cập đến các vấn đề liên quan đến trật tự xã hội, nghĩa chính của hòa bình là con người sống trong sự chan hòa và bình yên, tất cả những gì phá vỡ những giá trị này đều xem như là “phi hòa bình”. Cho nên hòa bình ở đây không hoàn toàn là đề cập đến sự xung đột chiến tranh mà nó còn là các vấn đề về giáo dục, kinh tế, sinh thái, đạo đức…Bởi vì một khía cạnh bị phá vỡ thì sẽ kéo theo nó các hệ lụy khác tương đồng. Chẳng hạn như môi trường thiên nhiên hiện nay bị xuống cấp trầm trọng, từ việc hạn hán kéo dài dẫn đến nguồn nước sinh hoạt bị thiếu, từ đó nảy sinh ra việc truy tìm nguồn nước. Hệ quả của nó là dẫn đến sự tranh giành, có tranh chấp nghĩa là có chiến tranh. Bởi thế làm tốt được một lĩnh vực cũng có nghĩa là các mặt khác cũng được ảnh hưởng tốt theo, ngược lại nếu các yêu cầu bức thiết trong cuộc sống không được giải quyết thì trật tự xã hội sẽ bị đảo lộn. Hòa bình là một chỉnh thể thống nhất mà sự liên quan của nó mang tính chặt chẽ và ảnh hưởng lẫn nhau.
Chúng ta biết được rằng, lịch sử của nhân loại từ ngàn xưa cho đến nay vẫn chưa có một ngày nào chấm dứt sự chiến tranh, sự xung đột cứ kéo dài dai dẳng hàng mấy ngàn năm. Xã hội phát triển, bên cạnh đó các ngành khoa học cũng phát triển vượt bậc, xã hội công nghiệp và cạnh tranh thị trường đã khiến cho con người trên hành tinh trở nên năng động hơn, tầm tư duy tốt hơn. Nhưng mặt khác nó lại tạo ra lòng tham cho con người. Những quốc gia có tiềm năng về kinh tế và quân sự họ bắt đầu tìm mọi điều kiện để tiến đến chiến tranh vì mục đích lợi nhuận, họ hô hào cho chủ nghĩa “Hòa bình”, trừng phạt những kẻ mà họ cho là đem lại sự nguy hại cho nhân loại, như là: các tổ chức khủng bố, các quốc gia chế tạo nguyên tử hạt nhân …mục đích của họ không hoàn toàn chỉ nhằm mục đích đem lại lợi ích chung cho thế giới, bên cạnh đó là những ý đồ mang tính chất chính trị đen tối, họ muốn chiếm đoạt những sản phẩm tài nguyên của các quốc gia mà họ chiếm đánh. Từ đó chiến tranh bùng nổ, nạn khủng bố xảy ra mọi nơi khắp trên toàn cầu, hàng triệu người dân chết một cách oan uổng, nhân loại sống trong nỗi sợ hãi lo âu. Tuy khoa học có tiến bộ cao nhưng vẫn không thể nào tìm ra một giải pháp tối ưu đem lại hòa bình cho nhân loại. Các ngành công nghệ nguyên tử, hạt nhân phát triển ở mức độ cao, khoa học đã cung cấp những phương tiện để tạo ra những vũ khí chiến tranh có khả năng hủy diệt tất cả các nền văn minh trên trái đất, nhưng lại không thể cung cấp trí tuệ để người ta không bao giờ sử dụng đến những vũ khí ấy.
Như vậy nguồn động lực tri thức và những phương tiện hữu hiệu, đề cập đến những vấn đề khó khăn ấy có thể được tìm thấy từ đâu? Càng ngày càng có nhiều người Phương tây tìm đến với giáo lý Đạo Phật nhằm tìm ra một câu trả lời cho sự hòa bình của nhân loại. Như đã đề cập ở trên, nguyên nhân chính của các cuộc chiến tranh đẫm máu chính là do tâm sát hại mà ra, một giải pháp tích cực cho hòa bình chính là ý thức được việc giữ gìn giới “không sát sanh” của Đạo Phật. Nếu như trên hành tinh này đều tuân thủ điều giới này thì chiến tranh sẽ không có cơ hội để phát sinh, nhân loại có thể hưởng được sự thái bình vĩnh viễn, giới sát của Đạo Phật chỉ hạn chế trong việc giết hại loài vật nhưng đối với việc giết người thì cấm tuyệt đối dù ở bất cứ hình thức nào. Bởi vậy, việc đương đầu với những khủng hoảng mà xã hội hiện tại đang phải gánh chịu chính là chưa ý thức được tội ác và quả báo của việc giết hại. Vấn nạn chiến tranh sẽ được giải quyết triệt để nếu con người bớt đi lòng tham, sân, si, biết phát huy giá trị nhân bản bằng cách sống hòa ái và không tranh chấp bằng xung đột, từ đó các mâu thuẫn cá nhân cũng được hóa giải mọi người có thể sống yên ổn dù bất cứ nơi đâu. Sự kiện UNESCO vừa rồi đã công nhận Phật giáo là một tôn giáo của hòa bình, ngày Phật Đản là ngày lễ trọng thể của thế giới, dù đến muộn màng, vẫn báo hiệu một thông điệp về một ước mơ hòa bình, thương yêu cho nhân loại.
Điều này cũng được Tổ xưa chỉ dạy:
“Nhất thiết chúng sanh vô sát nghiệp,
Thập phương hà xứ động đao binh,
Gia gia, hộ hộ đồng tu thiện,
Thiên hạ hà sầu bất thái binh.”
Nghĩa là:
Hết thảy chúng sanh không nghiệp giết,
Mười phương nào có nổi đao binh,
Mỗi nhà, mỗi chốn đều tu thiện,
Lo gì thiên hạ chẳng thái bình
III.2 Tư Tưởng Chính Trị Và Tinh Thần Nhập Thế Của Đạo Phật từ sơ khai đến thời Lý-Trần
Đạo Phật bắt đầu có ảnh hưởng tại Việt Nam kể từ thời kỳ Trung Hoa đô hộ (111 TCN – 939 Sau CN). Trung Hoa đã áp dụng chính sách đồng hóa văn hóa đối với đại chúng và đồng thời ngăn cản việc học lên cao từ sách chữ Hán (mà có thể là một kênh giúp thăng tiến trong xã hội). Thực tiễn này đã gián tiếp tạo nên vai trò quan trọng cho các nhà sư Phật giáo, họ vốn tinh thông chữ Hán nhất trong xã hội (để nghiên cứu kinh sách), cũng như tạo ra ảnh hưởng của đạo Phật tại Việt Nam từ những thuở ban đầu. khi giành lại độc lạp, ba triều đại – Ngô (939-967), Đinh (968-980), và Tiền Lê (980-1009), đã nối tiếp nhau nhanh chóng.bởi vì những người chấp chính vốn là “con nhà võ” đang bận bịu củng cố quyền lực còn non yếu, nên họ cậy nhờ đến những tỳ kheo Phật giáo uyên thâm này, cả về công vụ đối nội cũng như về quan hệ ngoại giao với Trung Hoa. Họ sử dụng kiến thức của các nhà sư mà không phải âu lo về lý thuyết trung thành kiểu Khổng giáo đối với một vị vương (trung thần bất sự nhị quân) khi phụng sự một triều đại mới kế ngjiệp vị vương đó. Sư Ngô Chân lưu, hậu duệ nhà Ngô, đã phụng sự vua Đinh Tiên Hoàng- người đã bổ nhiệm sự làm Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo và ban tặng tước hiệu Khuông Việt Đại Sư (cao tăng giúp việc trị vì nước Việt). Trong thời gian tại vị, vua Đinh Tiên Hoàng cũng đã ban hành quy định về các hàng tăng phẩm, các tăng này được xem là triều thần. Sau khi Lê Hoàn chiếm quyền từ người kế vị vua Đinh Tiên Hoàng và trở thành vua Lê Đại Hành, tất cả công việc triều chính được xử lý bởi sư Khuông Việt. Vị cao tăng này đã cùng sư Lạc Thuận phụ giúp nhà Vua trong việc tiếp nhận sứ thần Trung Hoa. Sư Vạn Hạnh đã được vua Lê Đại Hành tham vấn về chính sự trong các chiến dịch phá Tống bình Chiêm. Vị sư này khi chứng kiến điềm gỡ nơi một cây cổ thụ bị sét đánh đã tiên đoán rằng nhà vua tham sức Lê Ngọa Triều sẽ là vị vua cuối cùng của triều đại Tiền Lê và đã khuyên Lý Công Uản chiếm ngai vàng. Lý Công Uẩn, từ sau này là vua Lý Thái Tổ (thứ nhất) của triều đại nhà Lý, là một trẻ ngoại hôn, làm con nuôi cho sư Khánh Vân. Như vậy là đời nhà Lý (1010-1225) theo cơ duyên đã gắn kết với đạo Phật ngay từ ban đầu. Mặc dầu vai trò chính trị của các cao tăng không còn thống soái như trước đó, ảnh hưởng của họ vẫn còn rất mạnh, và Phật giáo đã có được sự tự do và hỗ trợ rộng rãi nhất như từng được biết trong lịch sử Việt Nam thời cổ. Được học tập nhiều hơn những vua triều trước, các vua nhà Lý ngưỡng mộ đạo Phật theo một phong cách mẫn tuệ hơn.
Con người chấp nhận quan điểm Phật tại tâm và thể nhập vào đời sống thì có thể hiểu và hành động theo bản tâm chân thật của chính mình, mục đích là đem lại các giá trị hạnh phúc cho chính mình và mọi nhười. Một quan điểm về đức Phật như thế sẽ tạo ra cái nhìn mới về bản chất bình đẳng của con người. Mọi người đều bình đẳng không phân biệt đẳng cấp, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ…..vì họ đều có khả năng thành Phật ở đời. Nó sẽ tạo ra sự đồng đẳng, không còn tự ti, mặc cảm mà tích cực hoàn thiện nhân cách cá nhân và sẵn sàng đóng góp cho đời cho đạo. Mọi vấn đề xảy ra trong cuộc sống đối với mỗi cá nhân hiện hữu đều được nhìn nhận trên cơ sở bình đẳng, từ đó người ta dễ dàng thông cảm, sẽ chỉ và đặt mình vào vị trí của người khác để nhìn nhận mọi vấn đề và cùng nhau có một hướng giải quyết tốt đẹp nhất mà không có môt thế lực nào chi phối cả. Rõ ràng một lối sống thiền mà Tuệ Trung đề xuất như thế không có gì là cao siêu, huyền bí mà thật đơn giản, cụ thể rất hiện thực hóa ở đời.
Phật giáo quan niệm hạnh phúc là sự vắng mặt khổ đau. Ngoài ra, hạnh phúc khởi nguyên từ trong thực tại để rồi tuôn chảy về thực tại nhiệm mầu. Trong ý nghĩa tận cùng đó, nếu có một người nào cố tình cắt chia thực tại bằng tư duy phân biệt, chia chẽ thì chẳng bao giờ có một giây phút bình an, hỷ lạc. Thực tế sinh mệnh con người từ khi cất tiếng chào đời vốn đã tự trói mình trong các xiềng xích từng ý niệm phân biệt giả hợp. Cho nên con người vội vã tìm kiếm ảo giác hạnh phúc bên ngoài đời thường. Kinh Pháp Bảo Đàn cũng đã tuyên bố “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”, nghĩa là Phật pháp chỉ có ở thế gian này, ngoài thế gian này khống có Phật pháp. Cho nên, các hành giả trong giới thền học thường xyên khuyến cáo đừng bao giờ chấp trớc chẻ chia thế giới thực tại này thành Phật quốc hay địa ngục trần gian. Sự phân biệt này sẽ làm cho con người càng trở nên thôi thúc tìm cầu một thế giới hảo huyền chất chứa vị ngọt của “ái thủ” (sự yêu thương đối đãi và chấp trước). Chính thiền sư Hy Vận từng tuyên bố “Nếu muốn thành Phật thì không cần phải học hết Phật pháp, chỉ nên học vô cầu vô trước. Nếu không cầu, tức trở thành tâm bất diệt, bất sinh bất diệt tức là Phật.” Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát mọi hệ lụy của cuộc đời. Kinh Kim Cương dạy bỏ những công ước, những giới điều trói buộc tâm thức con người, hãy lên đường bước vào đời sống và thể nhập thực tại. Hãy an trú vào chánh niệm, giải thoát luôn có mặt trong cuộc sống hàng ngày. Ông đã truyền cái sức sống mới, niềm tin mới khác mà những gì họ từng sống, từng hành động:
Phải chăng đây là nếp sống hướng thiện mà con người luôn khát vọng. Khát vọng này rất thiết thực hiện tại-bây giờ- ở đây. Như con tim nắm giữ sinh mệnh con người, cũng vậy nếp sống này đưa con người đến miền đất an lạc ngay giữa trần thế:
“A thùy ư thử tín đắc cập,
Cao bộ Tỳ lư đỉnh thượng hành”
(Âý ai tin được tới chỗ đó, Cất cao bước đi trên đầu Tỳ lư)
(Phật tâm ca). Chính nếp sống thiền mà Tuệ Trung thiết lập là sự kết tinh hoa của cả quá trình biến chuyển từ một hình thức Phật giáo chức năng chuyển sang hình thức sinh hoạt Phật giáo thế sự, nghĩa là một Phật giáo với chủ trương nhập thế, làm cho đời sáng tươi. Đỉnh cao của một giai đoạn Phật giáo mới này thông qua vua kiêm thiền sư Trần Nhân Tông đã trở thành một lối sống Cư trần lạc đạo, là tạo ra những kỳ tích của lịch sử với ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông, mở mang bờ cõi, góp phần bảo lưu và phát triển mọi thành quả giá trị văn hóa văn học nước nhà từ xưa cho đến nay. Triều đại nhà Trần của nước ta đã thể hiện một cách nhuần nhuyễn nội dung của giáo lý đạo Phật trên cả hai mặt nội trị và ngoại giao, làm cho nước ta trở nên hùng mạnh mà vẫn hiếu hòa, dân nước ta nhu thuần mà vẫn phú cường trong gần 3 thế kỷ. Những vị vua Phật tử khai sáng như Trần Thai Tông và Trần Nhân Tông đã xây dựng một cơ sở tinh thần để từ đó và trên đó, vận dụng tinh thần dung hợp và khai phóng của Phật giáo, đoàn kết và thống nhất toàn bộ nổ lực tri thức và nguồn lực vật chất xã hội để vừa có thể đánh bại các đạo quân xâm lược hung bạo phương Bắc, vừa mở mang bờ cõi về phương Nam, lại đặc biệt vừa tiếp thu một cách có đãi lọc và sáng tạo các nền văn hóa ngoại nhập hầu súc tích hóa và hiện đại hóa nền văn hóa bản địa đương thời của nước ta. Những chính sách quân phân điền thổ, lương bổng và thuế khóa, cải tạo tù binh và hành binh, giáo dục và thi cử để tuyển chọn nhân tài,… đều bắt nguồn từ tính bình đẳng, hạnh bồ tát, và lý duyên khởi của giáo lý nhà Phật.
Theo nguyên lý duyên khởi của tư tưởng Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Viên Giác thì bản thân từng cá thể không thể tự tồn tại độc lập mà không có sự liên hệ khác xung quanh con người, nhất là giai đoạn cả nước đang xây dựng và phát triển trên mọi lĩnh vực thì lại càng có nhiều mối liên hệ để giải quyết và xử lý. Vì vậy, các thành viên Thiền phái chủ trương bổ sung thêm một số quan điểm được đúc kết từ các bản kinh Đại thừa nói trên để làm cơ sở lý luận tạo tiền để hình thành chủ thuyết Cư trần lạc đạo phục vụ cho đường lối hoạt động Thiền phái, góp phần xây dựng phát triển đất nước:
“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.”
Thực tế, vào những năm trước và sau triều Lý tức là 1009, 1020, 1034, 1295 các bản Kinh Đại thừa đã được truyền vào nước ta và mãi đến năm 1295 vua Trần mới cho khắc in rộng rãi. Phật giáo thời Lý – Trần hưng thịnh với việc các vua đứng ra lập thêm Thiền phái. Lý Thánh Tông lập ra phái Thảo Đường với chủ trương tùy tục. Trần Nhân Tông lập ra phái Trúc Lâm không chỉ chủ trương tùy tục mà còn nhập thế tích cực.
Trước đó, Trần Thái Tông đã y cứ vào kinh điển Đại thừa, nhất là Kinh Kim Cương và Kim Cương tam muội chú giải để làm cơ sở giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn đang xảy ra trước cuộc sống. Tuệ Trung đã y cứ kinh Bát Nhã, Hoa Nghiêm diễn giải quan điểm tùy tục của Thường Chiếu thành “Hòa quang đồng trần” để chấn hưng đất nước và đạo pháp. Con người cần quay về sống thực tại bây giờ và tại đây. Như vậy, thực tại vốn vô thường, huyễn ảo biến dịch theo tư duy phân biệt của con người. Dù Phật giáo tuyên bố thực tại là Không, Không trong nghĩa không phân biệt, không có sự tham dự của luận lý, của các thức, chứ không phải là hư vô, trống rỗng; cái thực tại này được kinh Lăng Gìa xác nhận “Thế giới của hư ngụy này chính là thường hằng, chính là chân lý.”
Kinh nghiệm cho thấy, thể chứng thực tại một cách trọn vẹn khi nào tâm thức bước ra khỏi vòng luẩn quẩn phân biệt “nhị kiến” để an nhiên tự tại mà Trần Nhân Tông tâm đắc trong Thượng sĩ hành trạng “Ta trộn lẫn cùng thế tục, hòa cùng ánh sáng, đối với mọi vật chưa từng xúc phạm hay trái ngược”. Trong hội thứ nhất, ông khẳng định rõ:
“Mình ngồi thành thị;
Nết dụng sơn lâm,
Muôn nghiệp an nhàn lặng thể tính;
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm”
Thực tại ấy lừng lựng ra đấy, từ xưa đến nay, phô bày mọi nơi, mọi lúc mà Trần Nhân Tông cho là tùy duyên mà vui với đạo trong Cư Trần lạc đạo phú. Thể chứng thực tại là thể chứng Phật tâm, là tự tại giải thoát Niết Bàn ngay giữa
dòng doi
Trong kinh Tương Ưng Thế Tôn nói như sau: “Này các Tỷ-kheo, Ta đã được giải thoát khỏi tất cả bẫy sập ở Thiên giới và Nhân giới. Này các Tỷ-kheo, các Ông cũng được giải thoát khỏi tất cả bẫy sập ở Thiên giới và Nhân giới. Này các Tỷ-kheo, hãy du hành vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Chớ có đi hai người một chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Hãy tuyên thuyết Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Có các chúng sanh sanh ra ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe pháp sẽ đi đến hoại diệt. Họ sẽ trở thành những vị thâm hiểu Chánh pháp. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ đi đến Uruvelà, thị trấn Senà để thuyết pháp” Xưa cũng thế và nay cũng vậy, đạo Phật luôn tiếp nhận tinh thần nhập thế này một cách tích cực, kế thừa tinh thần nhập thế một cách có truyền thống. Thiền phái Trúc Lâm trở thành một trong những đặc trưng nổi bật của Thiền tông Việt Nam khi nhìn nhận nó trong dòng chảy lịch sử nước nhà. Trong bài viết “Tìm hiểu về Trần Nhân Tông, vị Tổ sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm”, Mạn Đà La phát biểu “Tinh thần của Thiền học Trúc Lâm là thiền học dân tộc, nghĩa là một mặt không ngừng phát triển tận cùng khả năng giác ngộ giải thoát để vươn lên đỉnh cao của con người: giác ngộ giải thoát hoàn toàn; mặt khác, không ngừng tích cực xây dựng an lành cho chúng sinh bằng cách trước hết phục vụ đất nước, dân tộc những người gần mình và có ân nghĩa đối với cuộc sống của mình.”
Thiền phái Trúc Lâm đã nhập thế cùng dân tộc trong sự nghiệp phát triển đất nước. Thực ra, tinh thần Nhập thế đã có từ thời Mâu Tử khi đạo Phật mới du nhập, nhưng phải đến Phật giáo đời Trần với Thiền phái Trúc Lâm thì tinh thần nhập thế mới được phát huy cao độ. Nó không chỉ tạo ra bản sắc Thiền tông Đại Việt mà còn tác động mạnh mẽ vào đời sống chính trị, văn hóa, xã hội nước nhà. Sự thành công của nhà Trần là do các ông vua lãnh đạo đất nước biết vận dụng tư tưởng Cư trần lạc đạo để huy động sức mạnh đoàn kết toàn dân. Tiềm lực dân tộc trước hết nằm ở lòng yêu nước của toàn dân để xây dựng Đại Việt thành một quốc gia hùng cường mà không có một thế lực nào ngăn cản được.
Xét cho cùng, khái niệm xuất thế của đạo Phật mang ý nghĩa nhập thế mà Phật đã hoạch định. Bài văn Cảnh sách của Quy Sơn rất phổ biến trong các Thiền đường Việt Nam đã nêu khái niệm xuất thế khá rõ. Vấn đề này cũng đã được ngài Quy Sơn tiếp nhận và phát huy với lời phát biểu “Phù xuất gia giả phát túc siêu phương tâm hình dị tục thiệu long thánh chủng chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân bạc tế tam hữu” (Người xuất gia là cất bước thì muốn vượt tới phương trời cao rộng, tâm tính và hình dung khác hẳn thế tục, tiếp nối một cách rạng rỡ dòng giống của Phật, làm cho quân đội của ma phải rúng động khuất phục, với mục đích báo đáp bốn ân, cứu với ba cõi.)
Phật giáo Đại Việt với nền Phật giáo thế sự, lấy chủ trương tùy tục để nhập thế. Thông Thiền đệ tử Thường Chiếu đề xuất khái niệm xuất thế được xác lập theo tinh thần duyên sinh vô ngã. Quy định nội dung xuất thế như thế, con người không nhất thiết xuống tóc xuất gia, chỉ cần ngộ cái lý năm uẩn là không, chân tâm không tướng, thể nhập đời trong mối tương quan và có thái độ sống thích hợp, cống hiến cho đời và cho đạo. Huống nữa, Thiền phái còn y cứ kinh Pháp Hoa làm cơ sở lý luận cho việc nhập thế, thì quan điểm Phật giáo đi vào đời đã trở thành nét đặc trưng với lời dạy nổi tiếng về nhiệm vụ của một vị Phật “khai thị ngộ nhập Phật tri kiến cho chúng sinh”. Và quan điểm vào đời ấy tùy thời, tùy yêu cầu từng giai đoạn của lịch sử giao phó mà Phật giáo tham gia đóng góp cho nước nhà.
III.3. Nhân Qủa Nghiệp Báo.
Nói đến lăng kính phật giáo, ta không thể nào bỏ qua nhân quả nghiệp báo, vì nó theo ta như bóng với hình, không thể nào tao một nhân mà không gặp quả chỉ qua nó mau hay chậm mà thôi. Cũng vậy, Con nguời hiểi được Giáo Lý Nhân Quả thì con người sẽ có nhiều đức tính tốt. Bởi nhân quả có tính chân thật, tính bình đẳng và tính khoa học. “Vạn vật hiện hữu trên thế gian này đều chịu sự chi phối của luật nhân quả” . Song nhân quả không đơn thuần như một số người dân hiểu “Nhơn nào quả nấy”. Nhân quả vừa đa dạng vừa biến chuyển, không phải cứng nhắc một chiều. Ví như chúng ta có hạt lúa giống là nhân, chưa hẳn sẽ có bông lúa và quả. Vì giống lúa là chánh nhân, cần phải gieo xuống ruộng, có đất nước ánh sáng và nhân công săn sóc nhổ cỏ, bón phân, ngăn ngừa sâu bọ, những thứ đó là trợ duyên. Chánh nhân và trợ duyên đầy đủ, thì quả mới viên mãn. Nếu chỉ có chánh nhân mà thiếu trợ duyên thì quả sẽ èo uột, hoặc chẳng thành. Dù có trợ duyên nhưng không đầy đủ thì kết quả cũng sẽ suy giảm. Do đó, nhân duyên phải cụ túc thì quả mới tròn đầy.
Đạo Phật nói nhân quả phần lớn là ứng dụng vào Đạo Đức con người. Do biết rõ mọi sự việc xảy ra đều từ nhân mà thành quả, không một quả nào ngẫu nhiên mà có hay một thế lực thiêng liêng tạo ra, tất cả đều do con người gieo nhân rồi con người gặt quả. Biết rõ điều này, mỗi khi một viêc tốt xấu xảy đến, chúng ta không vội mừng cũng như không hoảng sợ mà bình tĩnh suy tìm nguyên nhân chính nơi mình, là tránh được bệnh hấp tấp vội vàng. Biết mình là chủ tạo thành nhân tốt xấu, khi gặp quả xấu đến, chúng ta can đảm nhận trách nhiệm, không oán hờn than trách. Mình gây nhân thì mình thọ quả là lẻ công bằng, nên luôn luôn cảnh giác không dám tạo nhân xấu, mà ngược lại hằng tạo nhân tốt là tỉnh táo sáng suốt, như nói: “Bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Một quả hình thành từ nhân duyên tạo nên, muốn biết cái nào là nhân chánh cái nào là duyên trợ, chúng ta phải phân tích mới thấy rõ, đây là tinh thần khoa học. Tuy nhiên muốn thông suốt nhân quả phải xuyên suốt ba thời, quả hiện tại là nhân quá khứ, nhân hiện tại là quả vị lai, không thể chỉ chặng một quảng mà hiểu suốt được. Nhân quả nghiệp báo là đề cao ý thức trách nhiệm của mỗi người đối với cá nhân, cũng như đối với cộng đồng và xã hội.
Nghiệp là hành động. Nghiệp báo là kết quả hay là quả báo của hành động. Quả báo đó tương ứng với hành động tức nghiệp tạo ra nó. Ca dao tục ngữ việt nam đã đúc kết quy luật đó thành những câu như “ở hiền gặp lành”, “Gieo gió gặt bão”.
Đạo Phật xem quy luật này như là cái chìa khoá, giúp lý giải tất cả mọi sự vật và hiện tượng diễn biến trong tự nhiên và xã hội. Đạo Phật bác bỏ thần ý luận, cũng như Ngẫu nhiên luận. Nếu mọi diễn biến trong xã hội (ở đây, tạm không nói đến giới tự nhiên), đều do ý của thần hay của chúa sắp xếp sẵn rồi, thì mọi cố gắng sống đạo đức của người đều là vô ích. Đối với ngẫu nhiên luận cũng vậy, nếu mọi diễn biến trong xã hội đều xảy ra một cách ngẫu nhiên, không có quy luật gì cả, thì sống Đạo Đức mà làm gì?
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của Đạo Phật sẽ tạo cho mọi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội. Bởi vì, căn cứ theo quy luật nhân quả nghiệp báo của Đạo Phật, tất cả mọi hành động lời nói cho đến mỗi ý nghĩ của chúng ta, đều tác động đến bản thân chúng ta trong hiện tại và tương lai, đồng thời cũng tác động đến xã hội, tạo ra cái mà Đạo Phật gọi là biệt nghiệp, đối với mỗi cá nhân và tạo ra cộng nghiệp đối với cộng đồng và xã hội.
“Một đặc sắc nữa của Đạo Đức Phật Giáo là ý nghĩa thực tiễn sống động của những nguyên lý Đạo Đức Phật Giáo, chúng ta phải là khuôn mẫu ứng xử hằng ngày, hằng giây phút và của cả đời của chúng ta. Chúng ta phải biểu hiện thường xuyên bằng mỗi hành động đạo đức, mỗi lời nói đạo đức cho tới mỗi ý nghĩ đạo đức của chúng ta, trước hết là của tất cả Tăng, Ni, Phật Tử. Và từ ở cuộc sống Đạo đức của chúng ta, chúng phải toả sáng ra xã hội”.
C. KẾT LUẬN
Qua lăng kính Triết học Chính Trị đã cho chúng ta thấy Đức Phật chẳng những là một bậc siêu xuất trên thế gian mà còn thể hiện là một bậc Triết Gia lỗi lạc về Xã Hội – Chính Trị. Tuy các Kinh sách và giáo lý đã ghi lại lời dạy của Ngài không có đề cập về chính trị nhưng tất cả nhà chính trị đều nhìn nhận như vậy và Ngài là vị thầy của những người thầy chính trị, sự hiểu biết và trí tuệ của Ngài siêu xuất hơn….
Đồng thời chúng ta cũng thiết nghĩ rằng mục đích giáo lý của Đạo Phật là giáo hóa con người ngộ nhập Phật tri kiến. Với mục đích này không có nghĩa là các vấn đề Xã Hội và Chính Trị là không quan trọng. Bởi các vấn đề này luôn luôn tương hổ, luôn luôn mật thiết với mỗi con người chúng ta mà Đức Phật đã biết trứơc được điều đó. Nếu như các vấn đề về Xã Hội- Chính Trị không tương hổ, không mật thiết với con người thì chúng ta có điều kiện dễ dàng để tu học không?
Từ đó chúng ta thấy không thể nào mà các vấn đề Chính Trị – Xã Hội là không quan trọng được. Bởi không quan trọng là do con người chúng ta chưa nghiên cứu, chưa chuyên sâu về các vấn đề này. Cho nên trên thực tế thì các Kinh điển có ghi lại rất rõ ràng và Đức Phật cũng rất chú trọng đến các vấn đề đó.
Vì thế ngày nay, xã hội con người đang trên đà phát triển và vấn đề về Xã Hội – Chính Trị thì cũng là một trong những mối quan hệ hàng đầu của con người. Mà đặc biệt là Xã Hội – Chính Trị của Phật Giáo. Vì giáo lý của Phật Giáo luôn luôn gắn bó với con người chúng ta từ lâu đời và đây cũng chính là món ăn tinh thần của con người chúng ta. Cho nên nếu biết áp dụng Triết Học Chính Trị- Xã Hội của Phật Giáo vào đời sống thì chắc chắn rằng con ngưòi chúng ta sẽ được an lạc và hạnh phúc. Vì vậy đối với Triết Học Xã Hôị – Chính Trị của Phật Giáo thì chúng ta cần phải phát huy thêm để tư duy nghiên cứu và làm sáng tỏ những lời dạy của Đức Phật để từ đó có một cái nhìn thánh thiện hơn, cảm ơn sâu sắc đến với giáo thọ bộ môn cho con hiểu được đâu là triết học chính trị, để từ đó mới thấy cái tôi vô cùng nhỏ bé trong xã hội, để tiến thân hơn trong một ngày mai đang chờ đợi.

THƯ MỤC THAM KHẢO

— & —
– TS. Thích nữ Hằng Liên, bài giảng phật học viện tại tphcm, năm 2011
– TS.Thích Nữ Hương Nhũ (sưu tầm), Đạo Phật và Chính Trị (tài liệu giảng dạy cho sinh viên HVPGVN tại TP.HCM. Năm 2008.)
– TS. Nandasena Ratnapala (tác giả Sự Phân Tầng Xã Hội ) TS. Thích Nữ Hằng Liên (việt dịch). (tài liệu giảng dạy cho sinh viên HVPGVN tại TP. HCM. Năm 3, 2008).
– Khuông Việt (tác giả) Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận. HT. Thích Quảng Độ (dịch).
– KIMURATAIKEN (tác giả) Ñaïi Thöøa Phaät Giaùo Tö Töôûng Luaän, HT. Thích Quaûng Ñoä (dòch).
– Tịnh Không Pháp Sư (tác giả) Nhận Thức Phật Giáo. Thích Nhuận Châu (dịch).
– Thích Thiện Hoa (biên soạn) Phật Học Phổ Thông. (quyển 1). Nxb. Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh, 1992.
– Thích Chánh Minh (biên soạn) Tâm Vấn Đáp. Hà Nội – Nxb. Tôn Giáo, 2006.
– JUNJIRO TAKAKUSU (tác giả) Tinh Hoa Triết Học Phật Giáo. Thích Tuệ Sĩ (dịch) Nxb. Phương Đông, 2007.
– Nguyễn Minh Lăng (tác giả) Mấy Trào Lưu Triết Học Phương Tây. Nxb. Đại Học Giáo Dục Chuyên Nghiệp, 1988.


















Bình luận về bài viết này